Synopsis Chú Giải Khải Huyền by : Pastor Huỳnh Christian Timothy và Huỳnh Christian Priscilla
Tên Sách Tên sách trong các bản dịch Việt ngữ, được dịch là “Khải Huyền” hoặc “Khải Thị”. Các bản dịch Anh ngữ dịch là “Revelation”. Chữ revelation phát xuất từ chữ gốc apokalypsis, /a-bô-cá-lúp-sít/ G602 [1] trong tiếng Hy-lạp. Apokalypsis là một từ ngữ ghép, gồm “apo” có nghĩa là lấy khỏi, cất đi; và “kalypsis” có nghĩa là tấm màn che. Như vậy, nghĩa đen của apokalypsis là vén màn, cất màn che đi; nghĩa bóng là sự bày tỏ, sự tiết lộ một điều gì vốn được giấu kín. Dưới đây là ý nghĩa một số từ ngữ liên quan đến tên sách được dùng trong các bản dịch Việt ngữ: 1. Khải Huyền = Những nghĩa lý sâu kín, những lẽ thật được bày tỏ (khải = mở ra, trình bày; huyền = những nghĩa lý chân thật, sâu kín). 2. Khải Thị = Những sự nhìn thấy được bày tỏ (khải = mở ra, trình bày; thị = những sự nhìn thấy, xem xét). 3. Khải Tượng = Những hình ảnh được bày tỏ (khải = mở ra, trình bày; tượng = hình ảnh). 4. Mạc Khải = Sự mở màn, sự vén màn hoặc sự bày tỏ những điều vốn được giấu kín (mạc = tấm màn che, phủ; khải = mở ra, trình bày). Thánh Kinh Việt ngữ, Bản Dịch Truyền Thống, dùng từ ngữ “mặc thị” để dịch chữ apokalypsis. Tuy nhiên, trong tiếng Hán Việt, mặc = im lặng, tĩnh mịch; thị = xem xét, quan sát; vậy, mặc thị = xem xét hay quan sát sự tĩnh mịch, im lặng. Như vậy, dùng “sự mặc thị” để dịch “the revelation” là không đúng nghĩa. Nhiều lúc chữ “mặc khải” (khai mở sự im lặng) cũng bị dùng lầm, thay vì dùng đúng chữ là “mạc khải”. Chữ apokalypsis là chữ đầu tiên của sách Khải Huyền: “Sự mạc khải (apokalypsis) của Đức Chúa Jesus Christ mà Đức Chúa Trời đã ban cho Ngài để tỏ ra cho các tôi tớ Ngài những điều sắp phải xảy đến; Ngài đã sai thiên sứ Ngài tỏ ra cho tôi tớ Ngài là Giăng”, và được dùng làm tên sách trong nguyên ngữ Hy-lạp của Thánh Kinh. Người Ghi Chép Người ghi chép Khải Huyền tự xưng là một tôi tớ của Đức Chúa Jesus Christ, tên là Giăng (1:1), được Đức Chúa Trời kêu gọi làm tiên tri để “nói tiên tri trước nhiều dân, nhiều quốc gia, nhiều ngôn ngữ và nhiều vua” (10:11). Con dân Chúa trong Hội Thánh ban đầu tin rằng, Tiên Tri Giăng chép sách Khải Huyền cũng chính là Sứ Đồ Giăng, người chép sách Giăng. Đến thế kỷ thứ 3, một giám mục Phi Châu, tên là Đi-ô-ni-sớt (Dionyssius), nêu ra vài bằng cớ cho rằng, Tiên Tri Giăng, người chép sách Khải Huyền, không phải là Sứ Đồ Giăng. Các bằng cớ được ông đưa ra là: 1. Văn phong và kiến thức về Hy văn của người ghi chép sách Khải Huyền khác và kém xa với Sứ Đồ Giăng là người ghi chép sách Giăng. 2. Sứ Đồ Giăng tránh nhắc đến tên mình trong sách Giăng trong khi người ghi chép Khải Huyền thường xuyên nhắc đến tên mình trong sách Khải Huyền. 3. Toàn bộ nội dung của sách Khải Huyền không cho thấy có chỗ nào người ghi chép tự nhận hoặc ngụ ý mình là một sứ đồ. Dù vậy, phần lớn các nhà giải kinh ngày nay đều chấp nhận quan điểm cổ truyền: Sứ Đồ Giăng chính là người chép sách Khải Huyền. Quan điểm cổ truyền là quan điểm dựa trên các tài liệu do các giám mục cùng thời với Sứ Đồ Giăng ghi lại. Ba nan đề nêu trên có thể được giải thích như sau: 1. Sứ Đồ Giăng là một người đánh cá, thất học (Công Vụ Các Sứ Đồ 4:13). Có thể, sách Giăng là do một người giỏi tiếng Hy-lạp viết giùm cho ông, khi ông đang sinh hoạt với Hội Thánh tại Ê-phê-sô, trước khi ông bị cầm tù trên đảo Bát-mô. Còn sách Khải Huyền do chính ông tự tay viết lấy trong khi ông bị cầm tù trên đảo Bát-mô. Vì Giăng là người thất học nên bản văn Khải Huyền đương nhiên có nhiều lỗi văn phạm. 2. Trong sách Giăng, Sứ Đồ Giăng không cần nhắc đến tên mình, vì việc viết sách Giăng được thực hiện giữa Hội Thánh, có nhiều người biết. Hơn nữa, những gì được ghi chép trong sách Giăng có tính cách lịch sử, nhiều nhân chứng vẫn còn sống khi sách Giăng được viết ra. Còn sách Khải Huyền do chính Giăng viết một mình trong khi bị cầm tù, lại viết về những việc tương lai, nên ông phải xác định tên của mình, để bảy Hội Thánh vùng Tiểu Á khi nhận được sách, thì biết là sách Khải Huyền do ông viết. 3. Nội dung của sách Khải Huyền là những lời tiên tri, không liên quan gì đến công vụ của một sứ đồ, nên Giăng không cần phải xưng mình là sứ đồ. Dù vậy, trong Khải Huyền 1:2, ông cũng đã tự nhận: “là người đã mang chứng tích cho Lời của Đức Chúa Trời, cho chứng cớ của Đức Chúa Jesus Christ và cho mọi điều ông đã chứng kiến.” Chúng tôi tin rằng, Sứ Đồ Giăng chính là người ghi chép sách Khải Huyền theo sự mạc khải mà Đức Chúa Jesus Christ đã ban cho ông. “Giăng” trong nguyên ngữ Hy-lạp là Ioannes, /i-ô-a-nét/, G2491, là một tên thông dụng của những người I-sơ-ra-ên sống trong nền văn hóa Hy-lạp. Tên ấy được dịch từ một tên trong tiếng Hê-bơ-rơ: Yowchanan, /Giô-a-nan/, H3110, có nghĩa là: Đấng Tự Hữu Hằng Hữu ban cho cách rời rộng. Sứ Đồ Giăng là một trong 12 sứ đồ đầu tiên của Đức Chúa Jesus Christ. Ông là em của Sứ Đồ Gia-cơ. Hai anh em ông là bạn cùng nghề đánh cá với Sứ Đồ Phi-e-rơ và Sứ Đồ Anh-rê. Bốn người được Chúa kêu gọi làm sứ đồ trong cùng một ngày, và là bốn sứ đồ đầu tiên trong số 12 sứ đồ. Ông là người duy nhất trong 12 sứ đồ không chết vì tử Đạo, mà chết già (không kể Sứ Đồ Giu-đa Ích-ca-ri-ốt chết vì treo cổ tự sát, sau khi bán Chúa). Giăng được sinh ra vào năm thứ nhất (có tài liệu cho rằng ông được sinh ra vào năm thứ 6 TCN) và chết vào năm thứ 100. Quê hương của ông là xứ Ga-li-lê, thuộc về miền bắc quốc gia I-sơ-ra-ên, cách thủ đô Giê-ru-sa-lem khoảng 100 km. Gia đình của ông sinh sống bằng nghề đánh cá trên vùng biển hồ Ga-li-lê còn gọi là biển Ti-bê-ri-át. Gia đình ông có sự quen biết lớn với các thầy tế lễ và thầy tế lễ thượng phẩm đương thời Đức Chúa Jesus. Giăng là sứ đồ duy nhất theo sát Chúa vào tận trong dinh của thầy tế lễ thượng phẩm, trong đêm Chúa bị bắt. Ông cũng là sứ đồ duy nhất có mặt bên chân thập tự giá của Chúa, và đón nhận bà Ma-ri, mẹ phần xác của Chúa, về làm mẹ mình, theo lời phán dạy của Chúa. Sách Giăng năm lần dùng danh xưng “người môn đồ Chúa yêu” để gọi ông, cho thấy, ông có mối tương giao mật thiết với Chúa hơn các sứ đồ khác. Ngôn Ngữ Được Dùng Để Ghi Chép Sách Khải Huyền được ghi chép bằng tiếng Hy-lạp, là ngôn ngữ phổ thông thời ấy. Tuy nhiên, theo các nhà ngôn ngữ học thì lối hành văn của người ghi chép sách Khải Huyền đầy dẫy những lỗi lầm về văn phạm. Dường như người viết nhận thức khải tượng trong ngôn ngữ mẹ đẻ của ông là tiếng A-ra-mai, rồi viết lại bằng tiếng Hy-lạp; hoặc là Khải Huyền đã được ghi chép bằng tiếng A-ra-mai rồi mới được dịch sang tiếng Hy-lạp, và được dịch bởi một người rất kém về văn phạm Hy-lạp. Chúng ta có thể hiểu rằng, sách Khải Huyền do chính tay Sứ Đồ Giăng viết ra, và vì ông là người thất học, nên bản văn đương nhiên có nhiều lỗi lầm. Cũng có thể, Sứ Đồ Giăng hoàn toàn không biết đọc, không biết viết tiếng Hy-lạp, nên ông đã nhờ một bạn tù ít học viết theo lời thuật của ông. Địa Điểm Ghi Chép Theo lời của Giăng (1:9-11) thì những khải tượng đến với ông đang khi ông ở trên đảo Bát-mô. Chúng ta không có dữ kiện nào để biết rằng, Giăng đã viết sách Khải Huyền trong khi ông vẫn còn đang bị cầm tù trên đảo Bát-mô, hay là sau khi được trả tự do, Giăng về lại Ê-phê-sô và đã viết sách Khải Huyền tại Ê-phê-sô. Tuy nhiên, qua suy luận, chúng ta có thể cho rằng, Giăng đã viết sách Khải Huyền ngay khi ông còn ở trên đảo Bát-mô. Bởi vì, nếu sách Khải Huyền được viết tại Ê-phê-sô thì chắc chắn văn phong sẽ khác, vì tại Ê-phê-sô có nhiều người thông thạo tiếng Hy-lạp. Bởi vì, Giăng không biết được mình còn sống đến bao lâu, khi nào mới được trả tự do, cho nên, ông sẽ ghi chép ngay những gì đã được mạc khải cho ông, để gửi ngay đến bảy Hội Thánh, theo lời phán truyền của Chúa. Thời Điểm Ghi Chép Căn cứ vào các sự kiện lịch sử, nhiều nhà giải kinh cho rằng sách Khải Huyền được ghi chép vào khoảng năm 95 đến 96 trong bối cảnh Đạo Chúa bị bách hại dữ dội dưới triều đại của Hoàng Đế La-mã Đô-mi-tiên. Có thể, sách Khải Huyền được viết vào năm 95; đến năm 96, Hoàng Đế Đô-mi-tiên qua đời, cơn bách hại Đạo Chúa chấm dứt, Giăng được trả tự do. Bối Cảnh Lịch Sử Lúc Sách Được Ghi Chép Đô-mi-tiên (81-96) là hoàng đế La-mã bạo ngược và bách hại Hội Thánh Đấng Christ dã man nhất trong lịch sử La-mã. Mặc dù trước đó, Hoàng Đế Nê-rô (54-68), trong những năm cuối đời của ông có bách hại các tín đồ Đấng Christ, nhưng không phải vì cớ đức tin của họ. Truyền thuyết cho rằng Nê-rô ra mật lệnh đốt bỏ những khu dân cư lụp xụp của thành La-mã để lấy chỗ xây dựng cung điện mới cho mình. Sau khi cơn hỏa hoạn khủng khiếp xảy ra, dân chúng nghi ngờ đó là dã tâm của Nê-rô nên muốn nổi loạn. Nê-rô bèn trút đổ hết trách nhiệm làm cháy thành La-mã lên những tín đồ Đấng Christ, vốn là một cộng đồng hiền hòa, yếu đuối, và ông ra lệnh tàn sát họ để xoa dịu dân chúng. Khi Đô-mi-tiên lên ngôi, ông tuyên bố mình là Đức Chúa Trời, hạ lệnh cho mọi người phải thờ lạy và gọi mình là Đức Chúa Trời. Tất cả những ai không chịu tôn xưng Đô-mi-tiên là Đức Chúa Trời và thờ lạy ông, đều bị xử chết. Dĩ nhiên, các tín đồ Đấng Christ thời ấy không thể vâng phục sắc lệnh của Đô-mi-tiên, sự kháng lệnh ấy dẫn đến những cuộc bắt bớ, tàn sát Hội Thánh Chúa cách dã man (93-96). Trong bối cảnh đau thương, kinh hoàng đó, sứ điệp Khải Huyền đã đến với các Hội Thánh Chúa. Sứ điệp Khải Huyền chính là bản hùng ca của Chân Lý và Đức Tin, vang lên giữa chiến trận khốc liệt của quyền lực bóng tối và sự chết đang cố chà đạp thân xác những con người đã “vượt khỏi sự chết vào trong sự sống” (I Giăng 3:13-14). Hoàng Đế Nê-va (Nerva) (96-98), người kế vị Đô-mi-tiên, ngay sau khi lên ngôi đã lập tức hủy bỏ những sắc lệnh dã man của Đô-mi-tiên, trả tự do cho những tín đồ bị cầm tù; nhưng máu của các thánh đồ đã nhuộm thấm khắp đế quốc La-mã! Họ đã “trung tín cho tới chết” (2:10) với “Đấng yêu chúng ta; Đấng đã rửa sạch những tội lỗi của chúng ta trong máu của Ngài; Đấng đã lập chúng ta làm những vua và những thầy tế lễ cho Đức Chúa Trời, Cha của Ngài” (1:5-6). Ý Nghĩa và Mục Đích của Sách Khải Huyền Sách Khải Huyền là mạc khải cuối cùng của Đức Chúa Trời ban cho toàn thể Hội Thánh của Ngài, để bày tỏ những công việc sắp đến của Đấng Christ. Thánh Kinh được mở đầu bằng sách Sáng Thế Ký để ghi lại nguồn gốc của trời đất và nhân loại, được kết thúc bằng sách Khải Huyền để báo trước sự phán xét công chính của Đức Chúa Trời đối với tội lỗi và sự cứu rỗi dành cho những ai ăn năn tội, tin nhận ân điển tha tội và làm cho sạch tội của Đức Chúa Trời trong Đức Chúa Jesus Christ. Sách Khải Huyền cũng báo trước sự hoàn thành Vương Quốc Ngàn Năm của Đấng Christ trên đất; sự kết thúc của trời cũ, đất cũ, của Sa-tan và tất cả những ai chống nghịch Đức Chúa Trời; sự dựng nên trời mới, đất mới; cùng cơ nghiệp phước hạnh đời đời của con dân Chúa. Mục đích thứ nhất của sách Khải Huyền là để kêu gọi con dân Chúa thật lòng ăn năn tội, sống thánh khiết, sẵn sàng chịu khổ vì danh Chúa, và trung tín với Chúa cho đến chết; vì những đau thương, khốn khó, hoạn nạn, cám dỗ… đều sẽ qua đi nhanh chóng, và ngày Đấng Christ trở lại để thiết lập vương quốc của Ngài trên đất có thể xảy ra vào bất kỳ lúc nào. Mục đích thứ nhì của sách Khải Huyền là công bố trước chương trình của Đức Chúa Trời dành cho nhân loại sau khi thời đại của Hội Thánh được kết thúc. Thời đại của Hội Thánh sẽ kết thúc trong ngày Đức Chúa Jesus Christ xuất hiện giữa chốn không trung, để đem Hội Thánh ra khỏi thế gian. Bố Cục của Sách Khải Huyền Về hình thức, sách Khải Huyền được chia thành 22 đoạn, mỗi đoạn có số câu nhiều ít khác nhau. Về nội dung, sách Khải Huyền bao gồm một chuỗi “bảy sự kiện”: Bảy Hội Thánh: Đoạn 2 và 3. Bảy Dấu Ấn: Đoạn 6, 7 và đoạn 8 (câu 1 đến 5). Bảy Tiếng Loa: Đoạn 8 (từ câu 6) đến đoạn 11. Bảy Dấu Hiệu: Đoạn 12 đến 14. Bảy Chén: Đoạn 16 đến 18. Bảy Sự Cuối Cùng: Đoạn 19 đến 21. Các sự kiện này được chia thành bốn chương chính: 1. Chương Một — Đấng Christ và Hội Thánh: từ đoạn 1:1 đến đoạn 3:22. Chương này nói về sự phán xét của Đức Chúa Trời đối với Hội Thánh trong khoảng thời gian chừng 2.000 năm. 2. Chương Hai — Đấng Christ và Thời Đại Nạn: từ đoạn 4:1 đến đoạn 18:24. Chương này nói về sự phán xét của Đức Chúa Trời đối với thế gian và dân tộc I-sơ-ra-ên trong khoảng thời gian bảy năm. 3. Chương Ba — Đấng Christ và Vương Quốc Ngàn Năm: từ đoạn 19:1 đến đoạn 20:15. Chương này nói về sự cai trị của Đấng Christ trong Vương Quốc Ngàn Năm của Ngài. 4. Chương Bốn — Đấng Christ và Vương Quốc Đời Đời: từ đoạn 21:1 đến đoạn 22:21. Chương này nói về sự cai trị đời đời của Đấng Christ trong trời mới và đất mới. Ứng Nghiệm của Sách Khải Huyền Ngày mà Giăng được Đức Chúa Jesus Christ mạc khải cho nội dung của sách Khải Huyền, thì ông cũng được Ngài truyền cho ông viết bảy lá thư gửi cho bảy Hội Thánh địa phương tại vùng Tiểu Á. Chúng ta cần hiểu rằng, Đức Chúa Jesus Christ đã dùng tình trạng của bảy Hội Thánh ấy, làm tiêu biểu cho tình trạng chung của Hội Thánh khắp nơi, kể từ thời điểm ấy cho đến ngày Chúa đem Hội Thánh ra khỏi thế gian. Vì thế, phần nội dung của sách Khải Huyền nói về Đấng Christ và Hội Thánh, đã và đang ứng nghiệm cho từng Hội Thánh địa phương trong suốt gần 2.000 năm qua. Phần thứ nhì nói về Đấng Christ và thời Đại Nạn sẽ ứng nghiệm bất kỳ lúc nào, ngay trong thời đại của chúng ta. Và tiếp theo đó, sẽ là sự ứng nghiệm của phần thứ ba và phần thứ tư, nói về Vương Quốc Ngàn Năm và Vương Quốc Đời Đời. Ba Điều Quan Trọng về Sách Khải Huyền Có ba điều quan trọng về sách Khải Huyền mà chúng ta cần ghi nhớ. 1. Những ai đọc hoặc nghe người khác đọc sách Khải Huyền và giữ những điều đã viết trong ấy, thì sẽ nhận được phước: “Phước cho người đọc cùng những người nghe các lời tiên tri này và giữ những điều đã viết trong ấy, vì thì giờ đã gần!” (Khải Huyền 1:3). Xin chú ý: không phải chỉ đọc hay nghe, mà là đọc hay nghe và giữ lấy những điều đã viết trong sách. 2. Những ai thêm điều gì về nội dung của sách Khải Huyền sẽ bị thêm tai vạ; những ai bớt điều gì về nội dung của sách Khải Huyền thì sẽ bị mất sự sống đời đời: “Tôi làm chứng cho mọi người nghe những lời tiên tri trong sách này. Nếu ai thêm điều gì vào những lời này, Đức Chúa Trời sẽ thêm cho người ấy những tai họa được chép trong sách này. Nếu ai lấy đi điều gì khỏi những lời của sách tiên tri này, Đức Chúa Trời sẽ lấy phần của người ấy khỏi Sách Sự Sống, khỏi thành thánh và khỏi những sự đã được chép trong sách này.” (Khải Huyền 22:18-19). 3. Trong những ngày cuối cùng, sách Khải Huyền sẽ là phương tiện đưa dắt rất nhiều người đến với sự cứu rỗi của Đức Chúa Trời. Khi từng chi tiết của các lời tiên tri trong sách Khải Huyền được ứng nghiệm trong thời Đại Nạn, sẽ có rất nhiều người tin nhận sự cứu rỗi của Đức Chúa Trời. Họ ý thức rằng, sự bách hại về đức tin mà họ phải gánh chịu bởi chính quyền của AntiChrist sẽ chẳng ra gì, so với sự bị hư mất đời đời nơi hỏa ngục. Chúng tôi mong rằng, tất cả những ai đọc và nghe loạt bài Kỳ Tận Thế này, đều thật lòng ăn năn tội và tin nhận sự cứu rỗi của Đức Chúa Trời trước khi thời Đại Nạn đến. Và như vậy, ngoài sự được cứu rỗi, họ còn được dự phần vào trong Hội Thánh của Ngài. Trong các chương kế tiếp, chúng ta sẽ cùng nhau tìm hiểu ý nghĩa của từng câu trong sách Khải Huyền. Huỳnh Christian Timothy Huỳnh Christian Priscilla